Nghị định 117/2020/NĐ-CP gồm 4 chương và 117 điều, quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính, thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo từng chức danh đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
|
Ảnh minh họa
|
Xử phạt 70 triệu đồng đối với hành vi vi phạm hành chính về BHYT
Theo quy định của nghị định, vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế quy định là những hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực y tế mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính, gồm 5 nhóm hành vi vi phạm bao gồm: Vi phạm các quy định về y tế dự phòng và phòng, chống HIV/AIDS; vi phạm các quy định về khám chữa bệnh (KCB); vi phạm các quy định về dược, mỹ phẩm; vi phạm các quy định về trang thiết bị y tế; vi phạm các quy định về bảo hiểm y tế (BHYT)); vi phạm các quy định về dân số.
Các hành vi vi phạm hành chính về BHYT này được quy định tại Mục 5 (từ Điều 80 đến Điều 95) có 16 nhóm hành vi vi phạm về bảo hiểm y tế. Đó là các vi phạm quy định về: Đóng BHYT; đưa người không thuộc trách nhiệm quản lý của tổ chức vào danh sách tham gia BHYT; xác nhận không đúng mức đóng của đối tượng tham gia; lập, chuyển danh sách cấp thẻ BHYT; sử dụng thẻ BHYT trong khám bệnh, chữa bệnh (KB, CB); lập hồ sơ bệnh án, kê đơn thuốc BHYT; quản lý thuốc, hóa chất, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật, chi phí giường bệnh và các chi phí khác trong KB, CB BHYT; phạm vi quyền lợi được hưởng của đối tượng tham gia BHYT; vi phạm quy định về thanh toán chi phí KB, CB BHYT; hợp đồng KB, CB BHYT; xác định quyền lợi trong KB, CB BHYT không đúng với thông tin trên thẻ BHYT; báo cáo thực hiện BHYT với cơ quan nhà nước có thẩm quyền; cung cấp thông tin về đối tượng tham gia BHYT; cung cấp, cung cấp không đầy đủ, cung cấp sai lệch thông tin trong giải quyết quyền lợi của người bệnh tại cơ sở KB, CB hoặc thanh toán trực tiếp đối với đối tượng tham gia BHYT; gửi báo cáo quyết toán chi phí KB, CB BHYT chậm hơn thời gian quy định; vi phạm quy định khác.
Theo nghị định này, mức xử phạt tối đa cho các vi phạm hành chính lĩnh vực BHYT được điều chỉnh lên tới 70 triệu đồng, cao hơn mức tối đa 50 triệu đồng đang được áp dụng hiện nay. Một số vi phạm khác có mức phạt lên tới 50 triệu đồng, bao gồm: Vi phạm quy định về xác nhận không đúng mức đóng của đối tượng tham gia BHYT với mức vi phạm có giá trị từ 150 triệu đồng trở lên; áp sai về giá, ghi sai chủng loại, đơn vị, tên dịch vụ kỹ thuật trong thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT đối với mức vi phạm có giá trị từ 120 triệu đồng trở lên…
Bên cạnh các mức phạt tiền vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả cho tất cả các vi phạm lĩnh vực BHYT được quy định trong nghị định là: Buộc hoàn trả số tiền đã vi phạm vào tài khoản thu của quỹ BHYT (nếu có) đối với hành vi gây thiệt hại cho quỹ BHYT; buộc hoàn trả số tiền mà cơ sở khám chữa bệnh và đối tượng tham gia BHYT bị thiệt hại (nếu có), trường hợp không hoàn trả được cho đối tượng thì nộp vào ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Cho mượn thẻ bảo hiểm y tế có thể bị phạt đến 5 triệu đồng
Nghị định nêu rõ, phạt tiền đối với hành vi cho người khác mượn thẻ BHYT hoặc sử dụng thẻ BHYT của người khác trong KB, CB theo một trong các mức sau đây: Từ 1 triệu đồng đến 2 triệu đồng đối với trường hợp vi phạm nhưng chưa làm thiệt hại đến quỹ BHYT; Từ 3 triệu đồng đến 5 triệu đồng đối với trường hợp vi phạm làm thiệt hại đến quỹ BHYT.
Nghị định quy định phạt tiền đối với hành vi kê tăng số lượng hoặc thêm loại thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật, chi phí giường bệnh và chi phí khác mà thực tế người bệnh không sử dụng theo một trong các mức từ 1 triệu đồng đến 70 triệu đồng tùy theo giá trị mức vi phạm. Nghị định cũng quy định phạt tiền đối với hành vi áp sai về giá, ghi sai chủng loại, đơn vị, tên dịch vụ kỹ thuật trong thanh toán chi phí KB, CB BHYT theo một trong các mức từ 1 triệu đồng đến 50 triệu đồng, tùy theo giá trị mức vi phạm.
Theo quy định của nghị định thì chánh thanh tra cấp bộ, Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Cục trưởng Cục Quản lý dược, Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng và các chức danh tương đương được Chính phủ giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có quyền xử phạt đến 75 triệu đồng đối với vi phạm hành chính về BHYT. Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành cấp bộ có quyền đến 52,5 triệu đồng đối với vi phạm hành chính về BHYT. Tổng Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam có quyền phạt tiền đến 75 triệu đồng đối với vi phạm hành chính về BHYT.